Sách Kinh Dịch có viết: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. Gia đình nào tu thiện, tích đức chắc chắn sẽ có thêm nhiều điềm lành, còn những gia đình làm điều ác không thể tránh khỏi sẽ gặp nhiều tai họa.
Sách Kinh Dịch có viết: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. Gia đình nào tu thiện, tích đức chắc chắn sẽ có thêm nhiều điềm lành, còn những gia đình làm điều ác không thể tránh khỏi sẽ gặp nhiều tai họa.
Các nhà khoa học cho biết, một vụ không bạo vũ trụ có uy lực cự đại tương tự như vụ nổ Tunguska đã phá hủy hoàn toàn thành phố Sodom. Một số học giả tin rằng “Kinh Thánh” cũng ghi chép lại tai nạn này...
Lửa ở trên nước là quẻ Vị Tế (chưa thành đạt). Người quân tử lấy đấy mà cẩn thận phân biệt mọi vật để đặt vào cho đúng phương (đúng chỗ). Vị Tế thời là chưa cùng, đã chưa cùng thời còn sinh sinh mãi. Tên quẻ: Vị Tế là Thất (mất thăng bằng, chưa thành đạt, nhưng chớ bi quan, có hy vọng). Thuộc tháng 7.
Nước ở trên lửa là quẻ Ký Tế (đã thành rồi). Người quân tử lấy đấy mà nghĩ lo để phòng sẵn trước đó. (Lửa đun sôi nước, nước đào ra làm tắt lửa). Tế nghĩa là làm nên, cũng có nghĩa vượt qua được. Tên quẻ: Ký Tế là dĩ thành (đã thành rồi, danh lợi đủ cả, chỉ phòng khi thịnh hóa suy). Thuộc tháng 1 (Giêng).
Trên núi có Sấm là quẻ Tiểu Quá (cái nhỏ đi quá). Người quân tử nên lấy đấy mà nên giữ nết quá cung kính, làm tang quá buồn rầu, tiêu sài quá tiết kiệm (chỉ quá những việc nhỏ thôi chứ không quá việc lớn). Tên quẻ: Tiểu Quá (cái nhỏ đi quá một chút, bất hòa). Thuộc tháng 2.
Trên đầm có gió là quẻ Trung Phu (chí thành). Người quân tử lấy đấy mà nghị bàn việc hình ngục để hoãn tội tử hình. Trung Phu nghĩa là đức tín chứa ở trong lòng vậy. Tên quẻ: Trung Phu là Tín (chí thành, hòa hoãn, thong thả). Thuộc tháng 8.
Kinh Dịch là một tác phẩm phi thường mà Thần để lại cho con người, là lời dạy của Thần giúp nhân loại có thể đạt đến hạnh phúc đích thực. Trong quẻ Thuần Khảm này, người hữu duyên có tâm tìm hiểu sẽ thấu tỏ thêm nhiều bài học lợi lạc cho bản thân cũng như cho nhiều người khác.
Trên đầm có nước là quẻ Tiết (chừng mực) Người quân tử lấy đấy mà chế ra độ số và nghị luận về đức hạnh. Tiết có hai nghĩa: Tiết là mắt, như Trúc tiết; lại một nghĩa nữa, Tiết có chừng mực, cũng có nghĩa là dè dặt. Tên quẻ: Tiết là Chỉ (đến một thời gian nào thì ngừng, có chừng mực, có tiết độ, tiết tháo, tiết chế). Thuộc tháng 11.
Đầm liền với đầm là quẻ Đoài (vui vẻ) người quân tử lấy đấy mà bạn bè cùng giảng giải thực tập với nhau. Người trong xã hội, tất trước phải dần dà ngầm thấm, có ăn vào với nhau, thời mới sinh hòa duyệt, mà được hiệu quả đồng tâm. Tên quẻ: Đoài là Duyệt (Hỷ duyệt, vui lòng, vừa ý, song hỷ...). Thuộc tháng 10.
Về quẻ này, sách xưa ghi chuyện đời Nam Tống, có lần một nho sinh là Trình Quýnh về chiều xin trọ đêm tại ngôi chùa nhỏ Dư Liêu. Ngồi buồn, họ Trình thoát nhiên gieo quẻ ở đây ra sao, gặp quẻ Thuần Tôn, bèn đoán: có thể có tai nạn gió lửa, nhưng không đến chỗ ta. Qua vài ngày sau, phía Bắc ngôi chùa có hỏa hoạn, hơn chục nóc nhà cháy hoàn toàn. Quan huyện cho rằng các hòa thượng đốt lửa gây nên, nên bắt đánh đòn.